Bệnh thiếu máu

BỆNH THIẾU MÁU

Thiếu máu là sự giảm sút lượng huyết cầu tố lưu hành trong hệ tuần hoàn, và mọi hậu quả của thiếu máu đều liên quan đến tỷ lệ huyết cầu tố.

Nồng độ huyết cầu tố trung bình và thể tích trung bình của mỗi hồng cầu khác nhau tùy từng hội chứng thiếu máu, do vậy lượng huyết cầu tố cũng khác nhau đối với cùng một số lượng hồng cầu.

Theo tổ chức Y tế thế giới định nghĩa: Thiếu máu xảy ra khi mức độ huyết cầu tố lưu hành của một người nào đó thấp hơn mức độ của người khỏe mạnh cùng giới cùng tuổi và cùng sống trong một môi trường.

Về đại thể thiếu máu là một hội chứng bệnh lý do nhiều nguyên nhân gây ra làm cho tổng lượng hồng cầu lưu thông trong máu giảm dưới mức bình thường, làm cho máu không cung cấp đủ Oxy, cho tế bào.

Bình thường ở người lớn:

Hồng cầu ở nam là 4.200.000 ± 210.000 ở nữ 3.800.000± 160.000

Dung tích hồng cầu bình thường là 85 – 95um3

Nồng độ huyết sắc tố trung bình từ 32 – 38g/dl

Gọi là thiếu máu khi có ít nhất 2 trong 3 điều kiện sau:

Dung tích hồng cầu giảm dưới mức bình thường

Nồng độ huyết sắc tố giảm dưới mức bình thường

Số lượng hồng cầu / mm3 giảm dưới mức bình thường

Quan niệm về thiếu máu theo YHCT

Nói đến máu là một địch thể có màu đỏ lưu thông tuần hoàn giúp cho hoạt động trong cơ thể, tương ứng trong YHCT nói đến huyết, điều này còn rõ rệt hơn khi mô tả về mặt triều chứng học của thiếu máu như xanh xao, mệt mỏi, giảm gắng sức, niêm nhợt nhạt, lưỡi lớ, buồn nôn, chán ăn…. cũng được mô tả trong chứng huyết hư.

Tuy nhiên, YHHĐ và YHCT có hai hệ thống lý luận khác nhau, về mặt lâm sàng triệu chứng thiếu máu cũng biểu hiện tương tự chứng huyết hư, nhưng khi bệnh nhân có huyết hư chưa hẳn là có thiếu máu. Huyết hư bao gồm cả hiện tượng lượng huyết không đủ, chất lượng huyết không bình thường hoặc công năng của huyết bất thường.

Huyết là một trong 5 dạng vật chất giúp cho cơ thể sống hoạt động đó là: Tình, Khí, Thần, Huyết, và Tân dịch.

Huyết được tạo ra bởi tang Tỳ và tang Tâm: Tỳ biến hóa các chất tinh vi của thức ăn uống thành ra Tinh và Tâm khí hoá một phần Tinh ra thành sắc đỏ gọi là Huyết.

Trong hoạt động của cơ thể khí và huyết là 2 dạng vật chất luôn đồng hành, trợ lực, và chức năng luôn quyện vào nhau, huyết hữu hình còn khí thì vô hình, huyết thì tĩnh mà khí thì luôn động, huyết có khí mới lưu thông được, và khí có huyết mới có nơi nương tựa và giữ gìn, cả 2 trao đổi tác dung và nương tựa vào nhau giúp nuôi dưỡng cũng như mọi hoạt động của cơ thể, nên khi biểu hiện triệu chứng huyết hư có lẫn triệu chứng của khí.

Huyết được sinh ra tưới nhuận các kinh lạc, chu lưu khắp toàn thân giúp nuôi dưỡng cơ thể, giúp vinh nhuận da lông, và giúp cho các tạng phủ hoạt động. Mất nhờ huyết mà trông được, Tai nhờ huyết mới nghe được, ngón tay-bàn tay nhờ huyết mới cầm nắm được, chân nhờ huyết mới đi được, các tang nhờ huyết mới thu rút lại và tàng trữ được các phủ nhờ huyết mới tiết được. Sau giai đoạn vận hành, huyết lại được trở về tàng trữ ở Can. Tỳ vừa có vai trò sinh ra huyết vừa có vai trò điều khiển huyết ở đúng vị trí của nó (thống nhiếp Huyết), nếu huyết không ở đúng chỗ là xảy ra chứng xuất huyết như: Khái huyết (ho ra máu), Thổ huyết – Ẩu huyết (ói ra máu), Khạc huyết, Thóa huyết (nhổ ra huyết), Tỵ nục (chảy máu mũi), Não nục, Mục nục, Nhĩ nục, Xĩ nục, Thiệt nục, Đại nục, Hãn huyết, Tiện huyết, Niệu huyết, ứ huyết..v..v…

Như vậy việc sinh ra huyết và hoạt động của huyết một cách trực tiếp có liên quan hoạt động của các chức năng Tỳ, Tâm, và Can, gián tiếp có liên quan đến Phế và  Thận, vì Phế tàng trữ cũng như điều khiển hoạt động của khí, và Thận nạp khí hỗ trợ hoạt động khí hoá thức ăn uống của Tỳ cũng như chịu trách nhiệm về nguyên âm về dịch chất trong đó có huyết cho toàn cơ thể, do đó khi có rối loạn về chức năng các tạng nêu trên là có Ảnh hưởng đến huyết, và ngược lại khi có rối loạn về huyết thì cũng có khả năng Ảnh hưởng đến 1 trong chức năng các tạng nói trên.

benh thieu mau phong kham dong y tinh tuc tan binh 3

NGUYÊN NHÂN THIẾU MÁU THEO YHCT

Tỳ Vị hư nhược: Huyết được tạo thành từ tỉnh, tỉnh được tạo ra chủ yếu từ nguồn thức ăn uống.

Thức ăn uống vào vị, vị làm chín nhừ và thành phần tinh tuý nhất của thức ăn này sẽ được Tỳ vận hóa thành tinh, một phần của tinh sẽ được khí hóa thành sắc đỏ gọi là huyết, công năng của Tỳ Vị mạnh, thức ăn uống sẽ được chuyển hóa thành tinh, khí, huyết nếu công năng Tỳ Vị kém không văn hóa được thủy cốc sẽ sinh chứng huyết hư.

An uống không đầy đủ: Vật chất cơ bản để tạo thành tinh – khí – tân dịch – huyết… chủ yếu là từ thức ăn, nếu ăn uống thiếu thốn, nguồn cung cấp không đầy đủ, khí huyết không có nguồn sinh hóa, lâu ngày sinh huyết hư.

Mất máu quá nhiều:

– Bệnh biến từ ngoại cảm đến nội thương sinh hoả, hỏa nhiệt vong hành bức huyết làm chảy máu như trong khái huyết, thổ huyết, xỉ huyết, tiện huyết,..

– Bị chấn thương đụng dập mất nhiều máu Kinh nguyệt quá nhiều, hoặc rong kinh rong huyết lâu ngày.

Tất cả đều dẫn đến chứng huyết hư

Thân khí hư suy:

Thận tàng tinh, tỉnh tiên thiên góp phần thông qua thận khí hỗ trợ cho Tỳ vận hóa thủy cốc thành tinh hậu thiên, tính hậu thiên lại bổ sung làm mới hóa không ngừng tinh tiên thiên giúp cho hoạt động của Thân. Khi Thận khi suy yếu Ảnh hưởng dây chuyển đến việc sinh huyết. Ngoài ra Thận lại là chủ phần âm của cơ thể chủ về huyết dịch nên khi thận hư tất nhiên sẽ Ảnh hưởng đến huyết.

Tiên thiên bất túc, hậu thiên thất dưỡng đều dẫn đến thận hư, thận hư tất sẽ dẫn đến huyết hư.

Các nguyên nhân khác:

– Lao nhọc quá độ lại kèm thêm ăn uống thiếu thốn làm tổn thương cả khí khí huyết.

– Lao tâm quá làm tổn thương âm huyết

– Sinh đẻ nhiều hao khí tổn huyết, hoặc phòng dục quá độ cũng dẫn đến khí hư huyết suy.

– Trùng tích: bệnh giun sán tích tụ, thường là ở bụng, lâu ngày cũng dẫn đến tổn thương tỳ vị gây nôn nao, bụng lúc đau lúc không, sắc mặt úa vàng, mỗi lưỡi nhợt nhạt.

CÁCH NHẬN BIẾT THIẾU MÁU

Trên lâm sàng: Phụ thuộc nhiều vào tình trạng thiếu máu và khả năng thích nghi của cơ thể.

Da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, rõ nhất là lòng bàn tay và niêm mạc dưới lưỡi.

Móng tay, đầu ngón tay khô đét.

Lông tóc khô, dễ gây, dễ rụng.

Người mệt mối, tay chân yếu, tinh thần là rủi.

Sốt nhẹ có thể thấy trong thiếu máu nặng.

Khó thở khi gắng sức và có khi cả lúc nghỉ ngơi gặp trong thiếu máu nặng.

Tim đập nhanh nhất là khi gắng sức, thiếu máu nhiều sẽ xuất hiện âm thổi tâm thu nghe được ở mỏm tim và ở van động mạch phổi

Cận lâm sàng:

– Kiểm tra máu thông thường:

Ở Làm huyết đồ: gồm tìm cả lượng hồng cầu – bạch cầu và tiểu cầu

Lương hồng cầu: bình thường ở người lớn.

Nam: 4.200.000 ± 210.000

Nữ: 3.800.000 ± 160.000

@ Định lượng huyết sắc tố: rất cần thiết để tính lượng huyết sắc tố trung bình của

mỗi hồng cầu.

Huyết sắc tố bình thường ở người lớn: Nam 14,6 10,60; Nữ 13,2 ±0,55.

@ Định lượng Hematocrite: giúp kiểm tra số lượng hồng cầu, không thể có thiếu máu nếu hematocrite cao hoặc bình thường

Hematocrite bình thường ở nam 43%, ở nữ 39.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *